Suy thận mạn tính rất dễ dẫn đến suy thận giai đoạn cuối. Để duy trì cuộc sống phải điều trị thay thế thận bằng lọc máu hoặc ghép thận.
Suy thận mạn (STM) là một hội chứng
lâm sàng và sinh hóa tiến triển mạn tính qua nhiều năm tháng, hậu quả
của sự xơ hóa các nephron chức năng gây giảm sút từ từ mức lọc cầu thận
dẫn đến tình trạng tăng nitơ phi protein máu như urê, creatinin máu,
acid uric...
Ở nước ta chưa có số liệu thống kê về
STM trẻ em, nhưng tỷ lệ STM giai đoạn cuối chung cho cả người lớn và trẻ
em là 0,06 - 0,08% dân số. Vậy nguyên nhân nào dẫn tới bệnh lý này?
Nguyên nhân gây suy thận mạn
- Viêm cầu thận dẫn đến STMở
trẻ em chiếm tỉ lệ cao nhất, trong đó đáng lưu ý là nguyên nhân viêm
cầu thận liên quan đến nhiễm khuẩn (viêm cầu thận cấp). Bệnh thường gặp ở
trẻ em sau viêm họng hoặc viêm da.
Các nghiên cứu ở nước ta cho thấy có 5
- 10% bệnh nhi, bệnh tiếp tục tiến triển mạn tính và gây suy thận sau
10 năm bị viêm cầu thận cấp.
Có 80% trẻ bị viêm cầu thận cấp xảy ra
sau viêm họng hoặc viêm da do liên cầu khuẩn, số còn lại do các vi
khuẩn khác. Độ tuổi thường gặp là 6-9, bệnh xảy ra quanh năm nhưng tập
trung nhiều vào các tháng 9 - 12.
Nghiên cứu sinh thiết thận ở trẻ viêm
cầu thận cấp sau 10 - 15 năm cho thấy có tới 70% trường hợp có tổn
thương xơ cứng cầu thận từng phần hoặc hoàn toàn, trong đó 30 - 40% có
biểu hiện triệu chứng lâm sàng.
Riêng ở tỉnh Vĩnh Phúc trong 10 năm
(1995 - 2005) có 274 bệnh nhi bị viêm cầu thận cấp vào điều trị tại bệnh
viện tỉnh, trong đó có 5,4% bệnh nhi bệnh tiến triển thành mạn tính và
suy thận, sau 7 - 10 năm có 1,8% bệnh nhi phải lọc máu chu kỳ (Tạ Ngọc
Cầu, Hà Hoàng Kiệm).
Nếu làm tốt công tác chăm sóc sức
khỏe, vệ sinh thân thể, vệ sinh răng miệng, đề phòng và điều trị sớm
nhiễm khuẩn họng và da thì có thể làm giảm được bệnh này, góp phần làm
giảm tỉ lệ STM ở trẻ em.
Viêm thận kẽ là nguyên nhân chính gây suy thận
|
đứng
hàng thứ hai, trong đó tắc nghẽn đường dẫn niệu chiếm 6,2%, thường do
hẹp khúc nối bể thận - niệu quản bẩm sinh. Có thể phát hiện sớm bằng
siêu âm thận và phẫu thuật để sửa chữa.
Bệnh thận do trào ngược nước tiểu từ
bàng quang lên niệu quản mỗi lần rặn đái chiếm 6,9%. Có thể phát hiện
sớm bệnh này bởi triệu chứng trẻ thấy đau tức vùng hố thắt lưng mỗi lần
rặn đái. Nếu trẻ có triệu chứng trên thì cần chụp bàng quang có bơm
thuốc cản quang kết hợp rặn đái để xác định.
Hình ảnh X-quang sẽ cho thấy nước tiểu
trào ngược từ bàng quang lên niệu quản. Bệnh lý này là do khuyết tật ở
van giữa niệu đạo và bàng quang, có thể điều trị sửa chữa khuyết tật
này.
- Bệnh thận bẩm sinh
gặp 16,2% số trẻ STM, trong đó bệnh thận nang chiếm 1,9% có thể phát
hiện sớm bằng siêu âm thận. Hội chứng Alport chiếm 1,5% - đây là hội
chứng bệnh lý có tính chất gia đình, bệnh biểu hiện bằng suy thận và 50%
bệnh nhi có kèm theo điếc. Ngoài ra có thể gặp các bệnh thận bẩm sinh
khác như Cystinosis, Oxalosis.- Các bệnh hệ thống gặp 7% số trẻ STM, trong đó viêm thành mạch dị ứng (Henoch - Schonlein - pupura) chiếm 2,4%. Bệnh biểu hiện bằng từng đợt xuất huyết dưới da thể chấm, chủ yếu ở hai chân, đối xứng, có thể kèm theo đau sưng các khớp, có protein niệu, có thể điều trị lui bệnh bằng các thuốc corticoid. Hội chứng tan máu - urê máu chiếm 3,1% biểu hiện bằng vàng da, bilirubin máu tăng, thiếu máu, urê máu tăng.
Hậu quả do suy thận mạn
Khi đã bị STM tính thì bệnh sẽ tiến
triển dẫn đến suy thận giai đoạn cuối. Lúc này để duy trì cuộc sống của
bệnh nhân phải điều trị thay thế thận bằng lọc máu hoặc ghép thận, đây
là các kỹ thuật cao hết sức tốn kém.
Các phương pháp điều trị bảo tồn STM
chỉ có vai trò kéo dài thời gian ổn định chức năng thận và làm chậm tiến
triển của suy thận đến giai đoạn cuối.
Vì vậy vấn đề chăm sóc sức khỏe cho
trẻ em như vệ sinh thân thể, vệ sinh răng miệng, phòng và điều trị sớm
các nhiễm khuẩn ở họng hoặc da và các nhiễm khuẩn khác, phát hiện sớm
các bệnh thận bẩm sinh như hẹp khúc nối bể thận niệu quản, trào ngược
nước tiểu bàng quang lên niệu đạo, bệnh thận nang để có biện pháp điều
trị sớm, có thể làm giảm được tỉ lệ trẻ em bị STM.
Tỉ
lệ STM ở trẻ em Mỹ là 1 - 5 trẻ/ 1 triệu dân (Fine và Gruskin 1984),
trong đó hơn 50% số trẻ em STM giai đoạn cuối nằm trong độ tuổi 11 - 16.
Ở
Đức, theo số liệu của APN (Arbeitrgemeinschaft Fur Padiatrische
Nephrologie), tỉ lệ STM giai đoạn cuối ở trẻ em là 5 trẻ /1 triệu trẻ
em. Tỉ lệ này tăng dần theo nhóm tuổi, từ 0 - 5 tuổi: 32%, 5 - 10 tuổi:
72%, 10 - 16 tuổi: 87%.
Còn
theo số liệu của Hội Lọc máu và Ghép thận châu Âu (EDTA) thì tỉ lệ trẻ
em STM thay đổi từ 1 trẻ /1 triệu dân (ở Hy Lạp) đến 11 trẻ /1 triệu dân
(ở Israel).
Ở
nước ta chưa có số liệu STM ở trẻ em, nhưng tỉ lệ STM giai đoạn cuối
chung cho cả trẻ em và người lớn là 0,06 - 0,08% dân số (điều tra 18.064
người ở một số vùng dân cư).
Các
nguyên nhân STM ở trẻ em gồm: viêm cầu thận 31%; viêm bể thận/viêm thận
kẽ 22,5%; bệnh thận bẩm sinh 16,2%; bệnh hệ thống 7,0%; bệnh mạch máu
thận 1,5%; các bệnh khác 5,7%; không rõ nguyên nhân 3,7% (theo EDTA).
|
Theo PGS. TS. BS Hà Hoàng Kiệm (BV 103) - Sức khỏe & Đời sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét