BS. Nguyễn Đức Kiệt
Sỏi đường tiết niệu nói chung, sỏi
thận nói riêng là một bệnh phổ biến ở nước ta. Các điều kiện thuận lợi
cho việc hình thành sỏi tiết niệu là uống ít nước, ứ trệ nước tiểu,
nhiễm khuẩn tiết niệu, thay đổi độ pH nước tiểu. Những viên sỏi nhỏ có
thể tự ra ngoài theo nước tiểu. Những viên sỏi to nằm lại trong đài bể
thận hoặc trong bể thận rồi phát triển to dần choán hết đài bể thận, gây
ra những tai biến nghiêm trọng làm hủy hoại thận và các chức năng của
cơ quan này. Bệnh có đặc điểm chung là thường có biến chứng nhiễm khuẩn,
dẫn đến suy thận mạn tính rất nguy hiểm.
Tùy theo thành phần hóa học, người ta thấy loại sỏi có calci
(calci phosphat, calci oxalat, loại hỗn hợp cả oxalat và phosphat) và
sỏi không có calci như acid uric, systin... Tùy theo vị trí của sỏi có
sỏi thận (đài, bể thận), sỏi niệu quản và sỏi bàng quang. Dù loại sỏi
nào thì sự hình thành sỏi thận cũng theo 3 giai đoạn: tạo nhân, dính các
phân tử vào thượng bì đường niệu và lắng đọng, to dần thành sỏi. Các
điều kiện thuận lợi cho việc hình thành sỏi tiết niệu là uống ít nước, ứ
trệ nước tiểu, calci niệu tăng, citrat niệu thấp, pH niệu mất bình
thường và nhiễm khuẩn đường tiết niệu.
Người bị sỏi tiết niệu có một hoặc nhiều triệu chứng sau đây: đau,
tức, nặng vùng thắt lưng, cơn đau quặn thận; đái ra máu, đái buốt, đái
rắt, đái đục; có thể sốt và nếu để lâu, có thể có các biểu hiện của ứ
nước, ứ mủ ở thận, đái ít, vô niệu hoặc suy thận cấp hay mạn tính. Chẩn
đoán xác định sỏi tiết niệu chủ yếu dựa vào siêu âm hoặc chụp Xquang.
Theo Đông y, bệnh sỏi tiết niệu được gọi là thạch lâm, nguyên nhân
hoặc do ngày thường ăn nhiều thức ăn cay nóng, hóa sinh thấp nhiệt, uất
kết lâu ngày rồi dồn xuống bàng quang làm cho khí hóa trở trệ không
thông; hoặc do phòng sự quá độ, thận âm hao tổn, âm hư hỏa động ảnh
hưởng đến tác dụng khí hóa của bàng quang, làm cho tạp chất của nước
tiểu kết lại mà thành sỏi.
Với Tây y, sỏi thận có thể được chữa bằng nội khoa, cơ bản là giảm
đau, chống nhiễm khuẩn, điều chỉnh chế độ ăn uống và vận động hợp lý.
Nhưng ngày nay sỏi tiết niệu chủ yếu được chữa bằng ngoại khoa với
phương pháp khá hiệu quả là tán sỏi hoặc phẫu thuật lấy sỏi. Tuy nhiên,
nhược điểm của các phương pháp này là không chữa được tận gốc nên sỏi
lại tái phát.
Chữa sỏi thận bằng Đông y
Trong Đông y, tùy thể bệnh thấp nhiệt hay thận hư mà có các phương thuốc khác nhau.
Thể thấp nhiệt: Bệnh nhân có biểu hiện người trì trệ, nước tiểu vàng hoặc đỏ, đái đục có cặn, có sỏi, đau, nặng, tức vùng thắt lưng.
Thể này dùng phép thanh nhiệt hóa kiên làm chủ đạo. Các bài thuốc thường dùng là:
Bài 1: Kim tiền thảo 30g, quả
dành dành 20g, vỏ núc nác 16g, hoa, lá mã đề 20g, xương bồ 8g, mộc
thông 12g, tỳ giải 30g, cam thảo đất 16g, ý dĩ nhân 20g, quế chi 4g.
Cách dùng: Nếu tươi, tất cả
rửa sạch, thái nhỏ, sao vàng, hạ thổ; nếu đã khô thì để nguyên, cho vào
ấm đất với 4 bát nước, đun nhỏ lửa, còn 2 bát, chắt ra, cho nước sắc
tiếp, mỗi lần lấy 1,5 bát, trộn chung cả 3 lần, chia uống nhiều lần
trong ngày. Uống liên tục 2-3 tháng.
Bài 2: Mộc thông 12g, biển súc 12g, sa tiền tử 12g, hoạt thạch 12g, cù mạch 12g, sơn chi tử 12g, đại hoàng 8g, cam thảo 6g.
Cách dùng như trên.
Thể thận hư: Ngoài các dấu
hiệu nước tiểu vàng hoặc đỏ, đái đục có cặn, có sỏi, còn có biểu hiện
người mệt mỏi, đau lưng, mỏi gối, ù tai, trì trệ, ngại vận động, có thể
có di tinh, mộng tinh ở nam, rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ... Phương
thuốc thường dùng là:
Bài thuốc: Tơ hồng (sao vàng)
30g, tỳ giải 30g, thổ phục linh 20g, mã đề 16g, hoài sơn (sao vàng)
30g, liên nhục 20g, thạch vĩ 12g, quy bản 10g.
Cách dùng như trên.
Trong nhân dân, người ta còn dùng kim tiền thảo hoặc hạt chuối hột
sắc uống hằng ngày thay nước chè, nhiều khi cũng có tác dụng tốt.
Điều quan trọng là để đề phòng tái phát, bệnh nhân cần uống nhiều
nước (1,5-2 lít/ngày), ăn nhiều rau, hoa quả tươi, tập thể dục đều đặn,
tránh dùng các loại thức ăn, thuốc uống gây lắng đọng calci, tránh dùng
sulfamid và khi có triệu chứng đau lưng, đái buốt, đái dắt... cần đi
khám sớm tại các cơ sở y tế để điều trị kịp thời.