Bệnh lupus ban đỏ là bệnh tự miễn gây tổn thương nhiều cơ quan, trong đó viêm cầu thận chiếm tỉ lệ 60-75% bệnh nhân lupus ban đỏ.
Bệnh gặp ở nữ nhiều hơn nam, với tỷ lệ so sánh là 9 nữ/1nam.
Bệnh lupus ban đỏ gây ra viêm cầu thận lupus

Tiêu bản tổn thương viêm cầu thận lupus
Điều trị tích cực và duy trì điều trị
Bệnh lupus ban đỏ gây ra viêm cầu thận lupus
Cho đến nay người ta đã biết lupus ban đỏ là bệnh tự miễn và viêm
cầu thận lupus là một hậu quả do nó gây ra. Các yếu tố có vai trò trong
việc phát bệnh và kéo dài bệnh gồm: di truyền, rối loạn nội tiết, nhiễm
khuẩn nhất là nhiễm virut, suy giảm miễn dịch của cơ thể.
Bệnh lupus ban đỏ gây tổn thương ở nhiều cơ quan nên cũng có nhiều
triệu chứng của các cơ quan đó như: da, khớp, thận, huyết, tim, não.
Bệnh lupus ban đỏ diễn biến kịch phát nặng dần từng đợt, nặng nhất
là khi có suy thận, hội chứng thận hư, tràn dịch màng ngoài tim, viêm cơ
tim cấp, thiếu máu trầm trọng, tổn thương não cấp.
Riêng ở thận chủ yếu là tổn thương cầu thận nên mới gọi là viêm cầu
thận lupus. Các công trình nghiên cứu đã cho thấy viêm cầu thận lupus
là bệnh tự miễn giống như lupus ban đỏ.
Bởi vì trong bệnh lupus ban đỏ tìm thấy các kháng thể kháng ADN tự
nhiên, kháng thể kháng ADN đã phân giải, kháng thể kháng nucleoprotein,
kháng thể kháng yếu tố màng tế bào, kháng hồng cầu, kháng bạch cầu,
kháng tiểu cầu...; còn trong bệnh viêm cầu thận lupus, cũng tìm thấy các
phức hợp miễn dịch lưu hành trong máu hoặc hình thành tại chỗ như phức
hợp miễn dịch phát động quá trình viêm tại cầu thận làm dày màng đáy,
tăng sinh tế bào, xơ hóa cầu thận, tổn thương ống thận, kẽ thận…
Phát hiện sớm viêm cầu thận lupus có ý nghĩa đặc biệt
Viêm cầu thận lupus có ý nghĩa đặc biệt để tiên lượng bệnh lupus
ban đỏ, vì suy thận cấp nặng trong những đợt kịch phát của bệnh lupus
ban đỏ, bệnh nhân có thể tử vong. Bệnh lupus ban đỏ càng lâu, gây suy
thận càng nặng và dẫn đến suy thận giai đoạn cuối, phải lọc máu hay ghép
thận thì bệnh nhân mới sống được.
Do đó việc chẩn đoán và điều trị tích cực viêm cầu thận lupus là
rất quan trọng đối với sự sống còn của bệnh nhân. Muốn thế cần phải biết
phát hiện sớm viêm cầu thận lupus để điều trị kịp thời.
Ở một bệnh nhân lupus ban đỏ, khi khởi phát viêm cầu thận, bệnh
nhân sẽ có các biểu hiện sốt nhẹ, mệt mỏi, kèm theo một hay nhiều triệu
chứng ban đỏ, đau khớp, rụng tóc...
Thời kỳ viêm cầu thận lupus toàn phát, bệnh có các đợt kịch phát
nối tiếp nhau, đợt sau diễn tiến nặng hơn đợt trước hoặc có thêm những
tổn thương ở các cơ quan khác.
Theo Hội Khớp học Hoa Kỳ đưa ra năm 1982, viêm cầu thận lupus được
chuẩn hóa với 11 triệu chứng là: ban đỏ cánh bướm ở má; ban dạng đĩa;
tăng cảm thụ với ánh sáng; loét niêm mạc miệng họng; viêm khớp nhưng
không tổn thương; viêm tràn dịch màng phổi và/hoặc màng tim; tổn thương ở
thận: có protein niệu thường xuyên và/hoặc có trụ niệu; biểu hiện thần
kinh, tâm thần: co giật không rõ nguyên nhân, rối loạn tâm thần không rõ
nguyên nhân; huyết học: thiếu máu tan máu, giảm bạch cầu, giảm tiểu
cầu, giảm lympho bào; rối loạn miễn dịch: có tế bào LE, có kháng thể
kháng AND tự nhiên, có kháng thể kháng Sm hoặc các tự kháng thể khác, có
phản ứng giang mai (+) giả trên 6 tháng; kháng thể kháng nhân dương
tính.
Ở một bệnh nhân lupus ban đỏ, khi có 4/11 triệu chứng nói trên,
trong đó có tiêu chuẩn tổn thương ở thận, thì được chẩn đoán là viêm cầu
thận lupus.
Ở Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai đã đưa ra kinh nghiệm chẩn đoán viêm
cầu thận lupus là: có biểu hiện viêm không đặc hiệu như sốt kéo dài
không rõ nguyên nhân nhiễm khuẩn, đặc biệt là lao; tốc độ máu lắng tăng;
globulin máu tăng; triệu chứng ở thận: phải có protein niệu dương tính
với nồng độ 0,2 g/24giờ trở lên, có thể có kèm theo hồng cầu niệu, trụ
niệu.
Bệnh viêm cầu thận lupus cần phân biệt với các bệnh: lao, bệnh cầu
thận do các nguyên nhân khác, đặc biệt là với viêm cầu thận mạn có suy
thận.

Tiêu bản tổn thương viêm cầu thận lupus
Điều trị viêm cầu thận lupus phải đồng thời với điều trị lupus ban
đỏ. Cần điều trị tích cực trong những đợt kịch phát, phối hợp với những
đợt điều trị duy trì, hạn chế tổn thương thận, đồng thời điều trị những
tổn thương các cơ quan khác ngoài thận. Thuốc dùng là các thuốc ức chế
miễn dịch như: corticosteroid, azathioprin, cyclophosphamid...
Khi dùng các thuốc này, để hạn chế các tác dụng phụ của thuốc, phải
kiểm tra công thức máu 1-2 tuần/lần, để điều chỉnh liều, soi bàng quang
để phát hiện và xử lý những tổn thương ác tính. Lọc huyết tương khi có
đợt tiến triển cấp tính nặng.
Việc lựa chọn và phối hợp thuốc cần được xem xét kỹ lưỡng dựa vào
các triệu chứng lâm sàng, tổn thương mô học thận và các rối loạn huyết
thanh.
Điều trị các tổn thương ngoài thận của bệnh lupus ban đỏ như viêm
tràn dịch đa màng, viêm phổi do lupus, biểu hiện thần kinh tâm thần:
dùng corticosteroid liều thấp và các thuốc kháng viêm không steroid.
Viêm đau khớp thường giảm nhanh khi dùng thuốc kháng viêm không steroid,
như aspirin liều thấp.
Theo ThS Trần Tất Thắng - Sức khỏe & Đời sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét